Người giám hộ đương nhiên theo quy định của pháp luật được xác định là người giám hộ thực hiện hoạt động chăm sóc và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người được giám hộ. Vậy cha mẹ có phải là người giám hộ đương nhiên của con hay không?
1. Cha mẹ có phải là người giám hộ đương nhiên của con không?
Pháp luật hiện nay đang có hai chế định tồn tại song song đó là chế định đại diện và chỉ định người giám hộ. Nhiều người hiện nay đang bị nhầm lẫn giữa đại diện và giám hộ. Trước tiên, căn cứ theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề đại diện theo pháp luật của cá nhân. Cụ thể như sau:
– Cha mẹ được xác định là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên;
– Người giám hộ đối với những người được xác định là người được giám hộ, người giám hộ của những người được xác định là có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi sẽ được coi là người đại diện theo pháp luật của người đó nếu được cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án chỉ định;
– Người do cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện căn cứ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật dân sự năm 2015 theo như phân tích nêu trên;
– Người do cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án chỉ định đối với những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tiếp theo, căn cứ theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về giám hộ. Cụ thể như sau:
– Giám hộ là việc các cá nhân và pháp nhân theo quy định của pháp luật, được cơ quan có thẩm quyền đó là Ủy ban nhân dân cấp xã cử giám hộ cho một người khác, hoặc được tòa án chỉ định là người giám hộ, hoặc được quy định cụ thể tại Điều 48 của Bộ luật dân sự năm 2015, để thực hiện hoạt động chăm sóc và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho những đối tượng được xác định là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, hay còn được gọi chung là người được giám hộ;
– Trong trường hợp giám hộ cho những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì bắt buộc cần phải được sự đồng ý của họ nếu họ có năng lực thể hiện nguyện vọng và ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu giám hộ;
– Việc giám hộ sẽ bắt buộc cần phải thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Người giám hộ đương nhiên theo quy định mà không đăng ký việc giám hộ tại cơ quan có thẩm quyền thì vẫn sẽ phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về người được giám hộ. Theo đó, người được giám hộ bao gồm các đối tượng cơ bản sau đây:
– Người chưa thành niên không còn cha mẹ hoặc người chưa thành niên nhưng không xác định được cha mẹ;
– Người chưa thành niên có cha mẹ tuy nhiên cha mẹ của họ đều là những người mất năng lực hành vi dân sự, cha mẹ đều có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, cha mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, nếu bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, cha mẹ đều không có điều kiện chăm sóc và giáo dục con cái, đồng thời họ có yêu cầu người giám hộ cho con;
– Người mất năng lực hành vi dân sự;
– Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
Tuy nhiên cần phải lưu ý, một người chỉ có thể có một người giám hộ, ngoại trừ trường hợp cha/mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông/bà cùng giám hộ cho cháu.
Theo đó thì có thể nói, cha mẹ hoàn toàn có thể làm người đại diện hoặc người giám hộ cho con chưa thành niên theo quy định của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, cha mẹ chỉ có thể trở thành người giám hộ đương nhiên cho con nếu như người con đó là người mất năng lực hành vi dân sự, đồng thời người này chưa có vợ chồng, chưa có con cái, hoặc có vợ chồng tuy nhiên vợ chồng đều không đủ điều kiện để trở thành người giám hộ, có con cái tuy nhiên con cũng không đủ điều kiện để làm người giám hộ.
2. Cần phải đáp ứng những điều kiện nào để trở thành người giám hộ?
Trước hết, căn cứ theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về người giám hộ. Cụ thể như sau:
– Cá nhân và pháp nhân đáp ứng được đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật sẽ được quyền làm người giám hộ;
– Trong trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ chọn người giám hộ cho mình thì khi họ rơi vào tình trạng cần được giám hộ, các cá nhân và pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người được lựa chọn đó đồng ý. Việc lựa chọn người giám hộ cần phải được lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực;
– Một cá nhân hoặc pháp nhân sẽ có thể thực hiện hoạt động giám hộ cho nhiều người.
Pháp luật hiện nay đã có quy định cụ thể về điều kiện để có thể trở thành người giám hộ. Theo đó, để có thể trở thành người giám hộ đối với cá nhân thì cần phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện căn cứ theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật dân sự năm 2015. Bao gồm các điều kiện cơ bản như sau: